Cây muồng đen, tên khoa học Senna siamea là một cây họ đậu thường xanh cỡ trung bình có nhiều nhánh. Nó có chiều cao trung bình 10-12 m, hiếm khi vượt quá 20 m và đặc biệt có thể đạt tới 30m.
Hệ thống rễ của nó bao gồm một số rễ dày và sâu và trong một lớp rễ dày đặc lan rộng nhanh chóng (lên đến 7 m trong một năm).
Muồng đen dễ dàng bị bật gốc bởi gió mạnh. Thân cây thẳng, đường kính lên tới 30 cm. Vỏ cây có màu từ xám đến nâu nhạt, trở nên nứt nẻ theo tuổi tác; các lá mọc xen kẽ, dài 10 – 35 cm..
- Lá chét có hình dạng thuôn dài, dài 3 – 7 cm x rộng 1,2-2 cm, màu xanh đậm với một gân giữa có lông ngắn. Cụm hoa mọc thẳng đứng, mọc trên cuống ở đỉnh cành.
- Cuống hoa dài 30- 60 cm x rộng 13 cm của hoa ngũ sắc màu vàng sáng, đường kính 3 cm. Vỏ quả có rất nhiều, dài, hẹp, dài 5-25 cm x rộng 12-20 mm, phẳng, màu nâu sẫm, tách màu và nén giữa các hạt.
- Các hạt có hình hạt đậu, sáng bóng, màu nâu sẫm, dài 8 mm, có các quầng riêng biệt. Có 35.000 đến 41.000 hạt mỗi kg.
Nguồn gốc cây muồng
Muồng đen được cho là có nguồn gốc từ châu Á trong khoảng từ 25 ° Bắc đến 5 ° Nam bao gồm miền nam Ấn Độ, Sri Lanka, Myanmar, Trung Quốc, Thái Lan, Campuchia, Malaysia và một phần của Indonesia.
Muồng đen được giới thiệu rộng rãi ở miền trung và miền bắc Ấn Độ, ở châu Phi nhiệt đới, châu Mỹ và Thái Bình Dương, ban đầu là một cây bóng mát đại lộ trồng ven đường. Nó đã được sử dụng trong các dự án trồng rừng và cải tạo đất.
Muồng đen có thể được tìm thấy từ mực nước biển lên đến độ cao 1400 m, nhưng nó thường là một loài ở vùng đất thấp.
Nó đặc biệt phù hợp với vùng nhiệt đới vùng thấp có khí hậu gió mùa mặc dù nhiệt độ hàng năm dao động trong khoảng từ 20 đến 31 ° C, lượng mưa hàng năm từ 400-2800 mm với mùa khô không quá 4-8 tháng.
Muồng đen không chịu được lạnh (<10 ° C) và sẽ bị chết vì băng giá.
Bạn tham khảo
Gỗ muồng đen
Ở Việt Nam gỗ của loài cây này là gỗ nhóm I, nhưng loài cây này lại không nằm trong nhóm thực vật quý hiếm cấm khai thác, tàng trữ, vận chuyển (Nhóm IIA), cao từ 15 đến 20 m, đường kính khoảng 30–45 cm.
Gỗ có giác, lõi phân biệt, giác vàng đến trắng dày 3–7 cm, lõi nâu đậm đến đen tím hay thôi màu nếu gặp nước. Thớ thẳng, kết cấu thô, chất gỗ cứng, nặng với tỉ trọng 0,912. Lực kéo ngang thớ 19 kg/cm², nén dọc thớ 722/kg/cm², oằn 1.995 kg/cm², hệ số co rút 0,37.
Gỗ muồng đen được sử dụng để sản xuất đồ nội thất. Gỗ cứng với trọng lượng riêng 0,6-0,8. Gỗ dẻ có màu trắng và gỗ tâm có màu nâu sẫm đến gần như đen, với các sọc tối và sáng (Gamble 1922).
Gỗ cũng được sử dụng để làm cột, cầu, gỗ khai thác và tủ mộc…